Thường thường, người bịnh suyễn có những triệu chứng chính tiêu
biểu như
1) khò khè (wheezing) do các
phế quản co thắt làm khí trong phế nang đi ra ngoài khó khăn
2) hụt hơi, khó thở (shortness
of breath,dyspnea).
Một số bịnh nhân không có những
triệu chứng này, nhưng bịnh suyễn của họ biểu hiện bằng một triệu chưng khác là
họ ho dữ dội, kéo dài từ 4-6 tuần,ngày cũng như đêm, làm cho khó ngủ ban đêm,
ho nhiều hơn lúc vận động, thể thao, các cơn ho có thể khởi mào (trigger) do
tiếp xúc với một loại dầu thơm, bụi, chất hoá học, hay không khí lạnh (ví dụ
mùa đông , nhất là không mang khăn quàn cổ, không khí lạnh vào xuống tận
phổi).Những người này mắc bịnh suyễn nhưng dạng suyễn biểu hiện bằng một triệu
chứng không điển hình là ho.
Nếu hỏi kỹ về bịnh sử, có thể
hồi còn nhỏ, bịnh nhân đã đựoc bác sĩ định bịnh suyễn điển hình (như khò khè,
khó thở, bác sĩ từng dùng chất giãn nở phế quản như albuterol uống hoặc xông
hơi (nebulization, hay MDI [metered dose inhaler]) cùng với corticoid uống hay
xông. Sau đó thì bịnh nhân có vẻ như khỏi bịnh suyễn, nhưng lại xuất hiện chứng
hay ho dữ dội và kéo dài sau khi bị cảm, hay phơi nhiễm (exposed) với một số
chất nào đó, khí lạnh hoặc lúc làm việc hay thể thao mệt nhọc (exercise induced
asthma).
Những bịnh nhân này lúc khám
bác sĩ có vẻ như mọi chuyện bình thường, nghe phổi thông và trong, quang tuyến
bình thường và đo cơ năng phổi spirometry (đo "phế dung", lượng không
khí hít vào, thở ra, dung tích phổi chứa được bao nhiêu không khí,vv)cũng có
thể vẫn bình thường.
Methacholine challenge test:
Bác sĩ chuyên về bịnh phổi (ở Mỹ gọi là pulmonologist) có thể cho người bịnh
hít một liều lượng nhỏ chất methacholine. Methacholine là một chất có khả năng
là các phế quản co thắt lại, dù là có bịnh hay không. Người ta đo phế dung
người bịnh trước, sau đó dùng một liều rất nhỏ methacholine để cho họ hít vào,
đo lại, ở người bị bịnh suyễn cơ năng phổi sẽ bị giảm đi từ 20% hoặc nhiều hơn.
Sau đó, người ta cho bịnh nhân hít chất giãn phế quản (bronchodilator), các
thông số phế dung trở lại bình thường. Như vậy bs đã chứng minh phế quản của
bịnh nhân đã rất nhạy cảm một cách không bình thường với chất co phế quản, và
định bịnh "cough equivalent asthma" ở người bịnh. Thuốc dùng để chữa
gồm những thuốc giãn phế quản, thuốc giảm viêm loại corticoid dạng hơi để hít
vào, hoặ nếu bịnh nặng, ho không thuyên giảm, các chất corticoid uống.
Nói tóm lại, bịnh nhân bị những
cơn ho kéo dài, dữ dội mà bác sĩ chưa giải thích được nên nghĩ đến dạng
"ho tương đương của bịnh suyễn" có thể được điều trị và ngăn ngừa như
bịnh suyễn thông thường. Một số thuốc ho có chất ma tuý như codein, hydrocodone
(vd. trong Tussionex) có thể làm bịnh nặng hơn vì làm phể quản co thắt thêm.
Các chất kháng histamin như chlorpheniramine có thể làm nhớt trong phổi đặc
lại, kẹo hơn và tác dụng thông đờm (expectorant) có thể giảm đi. Nên tham vấn
với một bác sĩ chuyên về bịnh hô hấp (pulmologist) hay chuyên về các bịnh dị
ứng (allergist) để được điều tra tường tận hơn.
Một điểm khác nên nhớ, qua một
gia đoạn đời người nhiều năm, bịnh ho mấy chục năm trước lúc còn trẻ chưa chắc
đã có nguyên nhân giống như bịnh ho một người lớn tuổi. Ví dụ nếu mấy chục năm
qua hút thuốc lá, cơ nguy ung thư phổi rất cao. Viêm xoang chung quanh mũi làm
mủ chảy về phía sau họng cũng là một nguyên nhân thường gặp của bịnh ho dai
dẳng sau khi bị cảm. Thuốc mình đang uống cũng có thể ảnh hưởng làm cho ho, ví
dụ thuốc giúp hạ áp huyết loại ACE inhibitors như lisinopril có thể gây hoa dai
dẳng; thuốc hạ áp huyết loại propranolol có thể làm cuống phổi/phế quản co thắt
nhiều hơn, dễ lên cơn suyễn hơn. Một số hoá chất dùng trong nhà được điều hoà
không khí (AC), không khí được tái sử dụng ở Mỹ, nhà bị nấm mốc có thể là
nguyên nhân làm người ở trong nhà dễ bị ho. Cho nên cần bác sĩ hướng dẫn kỹ
lưỡng.
Cũng nên nhắc ở đây, ở người
lớn ở Mỹ, nguyên nhân quan trọng làm cho họ ho dữ dội và kéo dài mà không nóng
sốt, không có triệu chứng quan tuyến là bịnh ho gà , mặc dù họ từng chích ngừa
bịnh ho gà trước khi vào tiểu học. Hiện nay người ta khuyên chủng ngừa bịnh ho
gà (pertussis, whooping cough) cùng với bịnh yết hầu, uốn ván (tetanus) trong
một mũi vác xin kết hợp 3 thứ ("Tdap) tên thương mại là Boostrix (GSK) hay
Adacel (Sanofi Pasteur). Trước đây thuốc chủng ho gà không dùng cho người trên
7 tuổi; gần đây thì kháng nguyên dùng chích ngừa bịnh ho gà được sản xuất theo
kỹ thuật tinh chế hơn, không có tế bào nguyên của vi khuẩn , gọi là
"acellular" (không có tế bào), nên cơ thể người lớn (19-64 tuổi) có
thể chịu được dễ dàng hơn, và viết tắt là ap [acellular pertussis vaccine low
dose). (Cũng như vậy trong Tdap, d= vaccine cho diphteria ở liều thấp, so với
vaccine DTaP dùng cho trẻ dưới 7 tuổi.)
Theo CDC Mỹ:
"Vắc-xin Tdap có thể
bảo vệ thanh thiếu niên và người lớn khỏi bị uốn ván, bạch hầu và
ho gà. Một liều Tdap được tiêm định kỳ vào lúc 11 hoặc 12 tuổi. Những
người đã không tiêm Tdap ở độ tuổi đó thì nên tiêm càng sớm càng tốt.
Tdap đặc biệt quan trọng đối với các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và bất cứ
ai có tiếp xúc gần gũi với trẻ nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Phụ nữ có thai nên tiêm một
liều Tdap trong mỗi thai kỳ, để bảo vệ trẻ sơ sinh khỏi bị bệnh ho gà.
Trẻ sơ sinh có nguy cơ cao bị các biến chứng nghiêm trọng, đe dọa tính mạng
nhất từ bệnh ho gà."
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 20 tháng 4 năm 2018.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét