Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2020

Ông Phan Dũng Khánh: Một lần đầu tư sai, 8 năm ròng rã làm đủ nghề trả nợ


- Những ngày đầu tiên đầu tư chứng khoán, với ông, là như thế nào?

Thứ ba, 21/7/2020, 09:00 (GMT+7)



Lời tòa soạn: 28/7/2000 - thị trường chứng khoán Việt Nam có phiên giao dịch đầu tiên với chỉ vỏn vẹn 2 cổ phiếu, khớp lệnh 1 lần/ngày, 3 ngày 1 tuần. Hai mươi năm qua là chặng đường dài với thị trường chứng khoán của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Không khó để nhìn ra những kết quả đạt được của thị trường chứng khoán khi thể hiện rõ vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế, theo nhiều góc độ về định lượng như quy mô vốn hóa, cơ sở nhà đầu tư, số lượng sản phẩm, giá trị giao dịch hàng ngày… hay định tính như tính chuyên nghiệp của các thành viên….

Người Đồng Hành thu thập các số liệu, viết lại các câu chuyện được chia sẻ từ những nhà đầu tư cá nhân, những người làm công tác quản lý, lãnh đạo các công ty chứng khoán với hy vọng mang lại cho độc giả và nhà đầu tư những câu chuyện thú vị của một chặng đường dài đã qua.

Ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc Tư vấn Đầu tư Công ty Chứng khoán Maybank Kim Eng, đồng thời là một nhà đầu tư cá nhân đã gắn bó với thị trường chứng khoán ngay từ những ngày đầu tiên.



- Tôi vẫn nhớ cho đến tận bây giờ là sự hào hứng. Lần đầu tiên tôi biết đến thị trường chứng khoán (TTCK) là năm 1993, tìm tòi đọc sách dịch tiếng Việt, coi phim Hong Kong thấy doanh nghiệp thâu tóm, sáp nhập… Tôi thấy hay hay nên nghiên cứu, xem chứng khoán là gì mà người ta có thể giàu lên nhanh chóng rồi cũng vì đó mà có thể thù hằn, ghét bỏ nhau.

Tới năm 1998 – 1999, khi đọc tờ báo chứng khoán đầu tiên được phát hành tại Việt Nam, tôi có cơ hội tìm hiểu kỹ hơn. Khi đó, tôi là sinh viên trường Công nghệ thông tin, học chuyên ngành kỹ sư mạng máy tính nhưng cầm báo chứng khoán, nói chuyện về chứng khoán khiến nhiều bạn ngưỡng mộ lắm. Năm 2000, khi biết phiên giao dịch đầu tiên của thị trường chứng khoán Việt Nam, tôi còn mất ngủ.


Sáng sớm 28/7, tôi phi xe lên sàn giao dịch ở Nguyễn Công Trứ, hồi hộp hơn cả lần đầu gặp người yêu (cười). Nhưng cảm giác hồi hộp chỉ xuất hiện vào ngày hôm đó. Tôi phát hiện ra rằng nhiều người không có kiến thức về chứng khoán và tôi dần trở nên tự tin hơn.

Lên sàn, tôi quen một chị là cổ đông của 2 mã chứng khoán đầu tiên REE và SAM. Chị ấy cảm thấy băn khoăn vì trước có sổ cổ đông, được cầm nắm trên tay, giờ niêm yết sàn chứng khoán thì không biết tài sản đi về đâu. Chị sợ mất, chạy lên sàn canh “như canh con gái mới lớn lần đầu hẹn hò bạn trai”. Cổ phiếu của chị khi ấy ngày ngày đều tăng trần, tiền vô ào ào, chị không ngờ có thể kiếm tiền nhanh như thế.

- Ông đọc về chứng khoán vì thích hay vì cảm thấy sẽ nhanh giàu?

- Mình thích thôi! Hồi đó thấy mua mua bán bán, thông qua chứng khoán người ta làm giàu được, thâu tóm doanh nghiệp, điều khiển được chiến lược của công ty hay nhìn mấy ông chủ tịch cũng oách.

- Ông chọn mua cổ phiếu nào những ngày đầu tiên ấy?

Khi ấy tôi là sinh viên năm cuối, lại là sinh viên nghèo nên không có tiền mua. Hơn nữa thời điểm đó, không ai bán cả, chỉ giữ thôi vì ngày nào cũng tăng trần, dư mua khủng khiếp. Khi tôi gặp chỉ bảo chị kia mấy ngày, giải thích khái niệm niêm yết rồi cách giao dịch nên chị em cũng thân. Thấy tôi sinh viên nghèo nên chị tặng cho một lô 10 cổ phiếu mệnh giá 100.000 đồng “để chị em mình đầu tư chung có nhau cho vui”. Mình trở thành nhà đầu tư bất đắc dĩ thông qua việc cho tặng đó.



- Ông làm gì với lô cổ phiếu được tặng đó?

- Lô cổ phiếu vẫn mang tên chị ấy, khi nào bán sẽ gửi lại cho tôi. Tôi nhớ lô cổ phiếu tăng ầm ầm từ năm 2000 qua tháng 5/2001 lên cả triệu đồng. Tuy nhiên một lần lên sàn, tôi thấy chị ấy ôm bảng điện khóc. Hỏi ra mới biết, chị đã bán cổ phiếu và không ngờ kiếm được số tiền lớn quá sức tưởng tượng. Nhưng chị khóc vì lỡ bán mất mà giá nó lại lên điên cuồng.

Tuy nhiên, thấy giá cổ phiếu lên quá, chị ấy lại vào mua đúng cổ phiếu đã bán ở đỉnh và điều gì đến cũng phải đến. Từ tháng 6/2001, cổ phiếu tụt dốc không phanh, thấp hơn cả khi bắt đầu. Vì vậy, chị ấy từ bỏ và tôi cũng không còn lô cổ phiếu ban đầu đó nữa. Nên tôi mới nói, một trong những điều tôi thấy trên thị trường là sự cô đơn, không gặp người quen vì đa số họ đã “chết”.

- Thời điểm nào ông tự mua cổ phiếu?

- Tháng 6/2001, TTCK bắt đầu rớt cho tới năm 2003. Cuối năm 2003 đầu năm 2004, TTCK bắt đầu tăng trở lại. Tới năm 2004, tôi chính thức quay lại tham gia thị trường, mua cổ phiếu HAP của Tập đoàn Hapaco. Thời gian này, tôi hàng ngày làm công nghệ thông tin, tối nghiên cứu chứng khoán. Nhưng có lúc trong giờ làm, tôi cũng lên sàn ngồi.

Tới giai đoạn 2006 – 2008, người người chơi chứng khoán, nhà nhà chơi chứng khoán. Thậm chí, tôi gặp ông sếp có nhân viên chơi chứng khoán trong giờ làm việc, nhắc nhở mà người nhân viên đó nộp đơn nghỉ việc, tuyên bố rằng trong một ngày có thể kiếm được số tiền gấp nhiều lần lương. Người ta kiếm tiền bằng cách cứ mua là lời, không phân tích gì hết. Vấn đề là làm sao mua được cổ phiếu? Vì thế, môi giới chứng khoán thời điểm đó rất “hot”.

- Còn ông, vì sao từ một người làm công nghệ thông tin lại đi đầu tư chứng khoán? Thời điểm chuyển việc khi nào?

- Thật ra tôi vẫn làm song song cả 2. Ngoài việc kỹ sư công nghệ thông tin, tôi đầu tư cho cá nhân mình hoặc nhận của người thân, cũng như tư vấn đầu tư cho nhiều bạn bè.

- Các vị trí công việc ông làm khi chuyển qua lĩnh vực chứng khoán là gì?

- Đầu tiên tôi làm công nghệ thông tin và một vài vị trí khác cho cơ quan Nhà nước, cơ quan của Chính phủ. Sau đó, tôi làm chuyên viên chuyên trách danh mục đầu tư tài chính, đầu tư dự án rồi lãnh đạo bộ phận đầu tư của một số định chế tài chính như ngân hàng. Song song đó, tôi còn làm tư vấn cấu trúc cho doanh nghiệp, tham gia thành viên HĐQT của một số công ty cũng như tổ chức, hiệp hội…

- Vậy thời điểm nào ông đầu tư lời nhất?

Dĩ nhiên là khoảng 2006 – 2008, khi thị trường có thể giao dịch 2 hướng: sáng mua bán qua sàn, chiều kiếm hàng từ cổ phiếu OTC. Tôi nhớ có cổ phiếu ngân hàng trong vài tháng mà giá gấp hơn chục lần, mà chỉ là giao dịch bằng miệng.


- Ông làm gì với tiền lời?

Tôi không tận hưởng được cảm giác chiến thắng trong bao lâu. Bạn sẽ rất khó để thấy nhà đầu tư nào mang được tiền ra khỏi thị trường.

- Ông có thể nói rõ hơn vì sao không mang được tiền ra khỏi thị trường?

Vì lòng tham nên tiền được liên tục tái đầu tư, lợi nhuận của những khoản đầu tư trước được lấy hết để “all in” (đầu tư tất cả tiền) cho các khoản sau đó nên một khi mất là mất hết. Lòng tham che mờ khiến mình quên mất kỷ luật, nguyên tắc đầu tư, quản trị tiền, quản trị rủi ro.



- Có lẽ năm 2008, ông cũng bị thiệt hại nhiều?

Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi mất tiền khủng khiếp tới vậy. Năm 2001, thị trường đi xuống nhưng lô cổ phiếu là được cho, không phải tài sản của mình và số tiền cũng nhỏ. Còn năm 2008, chính xác là tôi phá sản.

Tôi nhớ khi đó tôi có chút tiếng tăm trên thị trường, nhiều người gửi gắm niềm tin, cơ hội và cả tiền. Mẹ tôi đi chợ mà bà bán cá còn bảo về hỏi tôi “mua con gì, bán con gì” để “đu theo”. Bà bán bánh canh thì cử chồng đi làm bảo vệ công ty chứng khoán để nghe lỏm các thông tin mua bán, tạo quan hệ với môi giới chứng khoán và các nhà đầu tư khác. Bà ấy kể với tôi kiếm được tỷ mấy, chuẩn bị chuyển từ bán bánh canh sang làm nhà đầu tư chuyên nghiệp luôn. Tôi kêu đừng có chuyển và đến giờ phút này, bà ấy vẫn bán bánh canh cho tôi ăn.

- Những thiệt hại đó với cá nhân ông cụ thể là gì?

- Do giá cổ phiếu xuống thảm hại, mọi người đều lỗ. Tôi vay mượn gia đình, bạn bè, hàng xóm, rồi huy động tiền từ người khác nữa. Phá sản, tôi phải làm đủ nghề để trả nợ. Sáng tôi đi làm văn phòng, tối đi dạy, khuya đi làm những công việc chân tay khác.

Tôi chưa có tiền trả, họ chửi bới, sỉ nhục, tìm đủ mọi cách, thậm chí dùng bạo lực. Lúc đó tôi chỉ ước mơ trả hết được nợ và có một chiếc xe máy, không ước gì hơn. Suốt 8 năm ròng sau đó kể từ khi mắc nợ (2009), tôi mới trả hết. Nhưng tôi chỉ trả khoảng 98%, còn 2% không phải không trả được, mà là chủ nợ cũng phải trốn bặt vô âm tín…bởi thiếu nợ chủ nợ khác.

Tôi nhớ lần đầu tiên tôi đi dạy lớp cơ bản về TTCK là năm 2009, được trả tổng cộng 930.000 đồng. Họ trả vào buổi cuối cùng, bước ra cửa lớp thì chủ nợ trực sẵn. Mấy năm đầu tiên sau khi phá sản, tôi không được cầm tiền đi làm thêm để xài mà chỉ có trả nợ thôi.


- Tại sao một người vỡ nợ vì chứng khoán lại đi dạy về thị trường?

- Tôi đi dạy kiến thức tài chính đầu tư, dạy để mọi người biết để đừng lâm vào hoàn cảnh như mình, có kiến thức để đầu tiên có thể tồn tại, từ đó để chiến thắng. Chứ nợ từ đầu tư thì chỉ có đầu tư mới có thể trả được vì nó có thể lớn tương đương với nợ của tổ chức chứ đơn thuần là nợ cá nhân ở những lĩnh vực bình thường khác.

Giờ hết nợ, tôi giờ vẫn đi dạy cho nhiều nơi từ tổ chức tài chính, trường học đến các nhà đầu tư. Tôi dạy nhờ vào trải nghiệm của bản thân và của cả nhiều người khác không còn cơ hội ngồi đây để giúp mọi người hiểu về thị trường, tránh phải trả giá quá đắt.

Đứng lớp với tôi giờ là niềm vui với mong muốn chia sẻ kiến thức cho những người khác để họ không mắc phải sai lầm như mình, giúp người ta kiếm được tiền.



- Kinh nghiệm, bài học tâm đắc nhất nhất của ông sau thất bại đầu tư này là gì?

- Tôi cho rằng phải đi theo thị trường thì mới kiếm được tiền, đôi khi vô lý không thể tưởng tượng được nhưng thị trường luôn luôn đúng. Quy luật duy nhất là thị trường không có quy luật.

- Vậy theo ông, nhà đầu tư thế nào thì trưởng thành?

- Với tôi, nhà đầu tư trưởng thành là đầu tư chục năm vẫn còn “sống” và thật sự kiếm được tiền trên thị trường một cách bền vững, xem đây là công việc nghiêm túc không phải chụp giật nhất thời. Thậm chí, nếu bạn đầu tư quá lâu mà vẫn mất tiền thì chưa trưởng thành, như một người bạn tôi đầu tư 8 năm, mua được xe SH sau khi bán một chiếc Mercedes. Một trong những thất bại đầu tư trên thị trường, tôi cho rằng xoay quanh chữ lòng tham.


- Nhà đầu tư cần làm gì để khắc phục thất bại đó?

- Có một câu nói thế này: Những nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới không phải giỏi tài chính mà là tâm lý. Đầu tư là quá trình dài, bao gồm trải nghiệm và tâm lý đầu tư tốt. Những người kiểm soát được lòng tham và sự sợ hãi sẽ không bị mắc lừa. Tâm lý vững vàng, kiến thức nền tảng về đầu tư tốt giúp tạo thành bản lĩnh thì không sợ không kiếm được tiền.

Chính tôi, năm 2007, TTCK lập đỉnh 1.179 điểm thì khi 1.152 điểm, tôi đã rút rồi. Nhưng mọi người nói với một người nhiều kinh nghiệm như tôi mà ai cũng đang mua còn tôi lại bán thì mất hết cơ hội. Tôi cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu, nghĩ hay mình sai. Và tôi quay lại mua đúng đỉnh. Và, tôi mất 8 năm để trả giá cho sai lầm đó.

- Hiện tại, ông có đầu tư không?

- Có, chỉ là tỷ trọng ít đi. Tôi trữ tiền mặt và đầu tư an toàn nhiều hơn vì khi đã có tuổi, cơ hội làm lại ít hơn. Với lại, càng ở lâu càng “biết sợ” thị trường hơn.


- Vậy, nguyên tắc đầu tư hiện tại của ông là gì?

- Kiếm được tiền là đúng, mất tiền là sai. Còn tiền là còn cơ hội, mất tiền là mất cơ hội. Khi mất tiền thì phải ngồi coi lại mình sai ở đâu và quyết định hành động phù hợp. Tóm lại, tôi luôn quan sát dòng chảy của vốn - thứ làm dịch chuyển thị trường (dòng tiền ngắn hoặc dài hạn) đồng thời đi theo nó vì thị trường luôn đúng.

Trước kia, tôi theo hướng “lướt sóng”. Tuy nhiên nhiều năm trở lại đây, tôi có kế hoạch đầu tư dài hạn, kể cả có đầu tư ngắn hạn cũng trong tầm nhìn dài hạn. Kể cả được “phím hàng” cũng phải tính toán, đưa nó vào kế hoạch dài hạn. Điều đó giúp tôi xử lý kịp thời nếu trong ngắn hạn xảy ra sự cố.

- Ông nghĩ bao giờ sẽ nghỉ hưu trong nghề đầu tư?

- Đầu tư chứng khoán và tài chính như cái nghiệp của tôi. Hơn nữa, tôi nghĩ nó là thu nhập bị động, không giống như những việc khác.

- Sau cùng, thần tượng của ông trong đầu tư là ai?

Tôi không thần tượng cụ thể người nào. Thần tượng của tôi có ở mọi nơi, là người chỉ bảo tôi đầu tư, hoặc người giúp tôi biết cách vượt qua những thất bại, thậm chí cả những người thất bại vì giá trị bài học thất bại bao giờ cũng rất lớn. Tất cả đều là những người thầy của tôi.

- Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện.


Phỏng vấn và hình ảnh: Khổng Chiêm

Thiết kế: Bảo Linh

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2020

Chuyện chưa kể của một "lão làng" trên TTCK Việt Nam: Từng lập file excel để tính lãi 7% mỗi ngày và 3 lí do tin rằng đội lái vẫn còn nhiều đất diễn




Thời kỳ 2007, NĐT xếp hàng từ sớm trước cửa công ty chứng khoán Bảo Việt để chờ được bốc số đặt lệnh, cái cảnh mà giờ chắc chỉ còn thấy khi khai trương các quán café có ca sĩ/diễn viên Hàn quốc, hay cửa hiệu Uniqlo…
Nhân dịp 20 năm chính thức hoạt động TTCK Việt Nam, Trí Thức Trẻ đã có buổi trao đổi với một "lão làng" trên TTCK Việt Nam. Anh tham gia TTCK từ những ngày đầu, là một trong số ít những người còn bám trụ lại với nghề, sau rất nhiều thăng trầm trên thị trường chứng khoán. Vì một vài lí do cá nhân, anh muốn được giấu tên, và chỉ muốn kể câu chuyện của mình một cách chân thực nhất.



Năm 1999 là thời điểm tôi tốt nghiệp đại học kinh tế, là dân tỉnh nên xin việc và trụ lại ở xứ Sài Gòn là vấn đề quan trọng bậc nhất. Tôi nộp đơn nhiều công ty, nhiều ngành liên quan đến kinh tế, khi đó trùng hợp sao HOSTC (khi đó là Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM) có thông báo tuyển dụng thì tôi đăng ký. Tất nhiên tôi biết chứng khoán là ngành mới, và là ngành tôi chả nhớ gì mấy (có học ở những năm đại cương nhưng đâu có nghĩ là ở Việt Nam sắp ra đời sàn chứng khoán).

Nói đùa rằng nộp đơn vào HOSTC tính ra cũng là việc mạo hiểm, vì tôi hầu như không thể sử dụng kiến thức gì trong 5 năm đại học vừa xong. Giờ nghĩ lại, nếu mọi người cùng cho rằng chứng khoán Việt Nam có nhiều thành tựu lớn sau 20 năm thì rõ ràng là tôi may khi "chọn" theo ngành này.

Gia nhập thị trường từ khá sớm, đến nay kỷ niệm về những ngày đầu cũng có nhớ khá nhiều, ví dụ như tôi nhớ từng lập 1 file excel, chỉ nhằm tính toán nếu cổ phiếu cứ tăng trần đều đều 1 ngày 7% thì ngày mai ngày kia, tuần sau tháng sau… tôi lời bao nhiêu %. Tôi nhớ từng tham gia lập bảng kiểm tra tốc độ đặt lệnh cho đại diện sàn, với mục tiêu 10 giây 1 lệnh, và choáng khi có một chị bên Agriseco gõ nhanh chưa tới 3 giây 1 lệnh (sau này nghe nói đại diện sàn copy lệnh thì nhanh khỏi nói).



Trong những ngày đầu khai trương thị trường, tốc độ nhập lệnh là yếu tố quyết định khả năng mua được cổ phiếu. Lúc đầu chỉ khớp lệnh định kỳ 1 lần/ngày, và 1 trong những mánh lới đầu tiên của đại diện sàn để đua lệnh là gõ 10 ký tự số hiệu tài khoản cùng 1 con số, sau đó sửa lại đúng số tài khoản trước giờ khớp lệnh. Đây là trường dữ liệu duy nhất có thể sửa được mà không ảnh hưởng đến thứ tự ưu tiên thời gian của lệnh. Ảnh: Lê Toàn

Ngày HOSTC khai trương, tôi nhớ từng bị 1 sếp la vì cái tội hiển thị giá cổ phiếu trên bảng điện (giá ảo) có màu đỏ (hồi đó giá tăng là đỏ, nhưng sếp sợ màu đó xui).


Tôi cũng còn nhớ cảnh NĐT xếp hàng từ sớm trước cửa công ty chứng khoán Bảo Việt để chờ được bốc số đặt lệnh, cái cảnh mà giờ chắc chỉ còn thấy khi khai trương các quán café có ca sĩ/diễn viên Hàn Quốc, hay cửa hiệu Uniqlo…


Tôi từng kiếm được tiền, rồi lại mất gần hết trong giai đoạn 2007-2008. Tôi còn nhớ mấy anh chị quen nói Tết Âm lịch đầu năm 2007 là cái tết hoành tráng nhất trong bao nhiêu năm qua ở Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, vì nhà nhà thắng chứng khoán, người người thắng chứng khoán. Ai cũng ăn mừng chứng khoán, và ai cũng hy vọng sau Tết sẽ đánh chứng mạnh hơn nữa.

Tháng 2/2007 là thời điểm tôi bắt đầu từ bỏ nghề công chức chứng khoán mà ra làm cho 1 công ty chứng khoán tư nhân. Không làm môi giới, mà làm phân tích, nhưng khi đó chứng khoán sục sôi thì môi giới và phân tích cũng chả khác biệt gì lắm. Cũng nhận định, dự phóng định giá model các kiểu, nhưng khi đa số cổ phiếu đều tăng giá thì anh nào cũng vênh mặt vì ai cũng nói đúng, bất kể theo "phương pháp" nào.


Nhưng có lẽ khi đó có một loại trải nghiệm đáng nhớ mà nhiều bạn trẻ bây giờ chưa được "hưởng", đó là giá cổ phiếu được "định giá" thay đổi tăng gấp 5-10 lần chỉ trong vòng 24 giờ. Đó là khi đấu giá IPO, nhất là đấu giá cổ phiếu dầu khí họ PVN.

Bạn nào từng xem những bộ phim xưa về sàn chứng Mỹ, người người đông nghẹt, chen chân giơ tay ra ký hiệu… thì đấu giá ở HOSE cũng vậy. Đến ngày đấu giá tại HOSE, khi NĐT bắt đầu ghi giá đấu lên phiếu, giá cổ phiếu bắt đầu tăng chóng mặt, vì người này nhòm phiếu người kia, người nào ghi sớm thì sau khi nhòm, họ chỉ muốn ghi lại, thế là sửa xóa trên phiếu, dẫn đến phiếu đấu bị hủy vì phạm quy định.


Nhìn lại thời điểm 2007, VNIndex và giá nhiều cổ phiếu tăng rất nhanh và mạnh, nhưng chỉ kéo dài có 4 tháng ngắn ngủi rồi sau đó giảm thê thảm.

Từ tháng 4/2007 chứng khoán bắt đầu đổ, nhưng dù gì cũng có 2 đợt hồi phục lớn trong năm đó, do vậy đến cuối năm 2007 VN-Index chỉ giảm hơn 20% (tất nhiên cổ phiếu rớt nặng hơn). Nhưng năm 2008 mới là năm thực sự buồn cho cả ngành chứng Việt Nam khi chịu tác động kép cả từ tâm lý thất vọng của NĐT trong nước, lẫn chứng khoán thế giới sụp đổ.

VN-Index chỉ có 1 đợt hồi nhẹ duy nhất vào giữa năm đó, nhưng rồi lại rớt về dưới 300 điểm cho đến cuối năm. Nhiều vị lãnh đạo lên tiếng cũng không ngăn được tình trạng bán tháo của NĐT. Nhiều anh em trong ngành chứng cũng phải "chia tay" nhau trong giai đoạn này, trong đó có một vị sếp của tôi. Kỷ niệm đáng (buồn) nhớ nhất của tôi là gì? Là tự tay viết giùm đơn thôi việc cho sếp lần thứ 2 trong năm này (lần đầu vào năm đầu nào đó của ngành chứng).


Tôi không nói rằng tôi yêu ngành này mà cố bám trụ. Tôi nghĩ ai làm lâu trong 1 ngành đều có tình yêu với ngành đó, do đó nói lên tình yêu không phải là việc gì to tát. Tôi bám trụ, đơn giản vì tôi không có nhiều lựa chọn để tìm ngành khác. Kiến thức tôi học ở đại học đã quên rồi, đâu còn nhớ mấy mà đi xin việc. Hơn nữa, kinh nghiệm tính theo số năm của tôi ở ngành chứng khá lớn, nó là lợi thế lớn nhất để nhảy từ công ty này qua công ty khác, miễn là còn trong ngành. Còn qua ngành khác, kinh nghiệm sẽ về gần con số không.

Tất nhiên có nhiều bạn bè tôi đã bỏ ngành, không ít người thất vọng với tương lai ngành chứng khoán, nhưng đa số họ có điều kiện nhất định khác. Còn tôi đã trải qua mấy giai đoạn thăng trầm lớn của thị trường, tôi vẫn khá lạc quan với tương lai.


Thường người ta nói, làm trong ngành chứng khoán rất áp lực, lúc lên thì khách hàng đòi tìm kiếm lợi nhuận, nhưng lúc xuống thì trách móc, chuyện này rất bình thường. Tôi từng tự ý bán cả danh mục 20-30 mã cổ phiếu của một chị khách rất thân quen trong năm 2007 và bị cằn nhằn không dứt, may là tình chị em vẫn còn sau đợt khủng hoảng đó.

Gần đây kiểm nghiệm lại những lần tư vấn cho anh em môi giới hay khách, tôi tự thấy vẫn luôn có những nhận định sai hay "phím hàng sai". Tuy nhiên, áp lực đối với tôi lúc này không phải là sợ "phím hàng sai", mà là không biết nói gì khi thị trường sideway hay có nhiều thông tin ngược chiều nhau cũng làm nhiễu loạn thị trường. Lý do là giờ tôi không còn phải "phím hàng" hàng ngày như các bạn môi giới trẻ.

Đối với các bạn môi giới trẻ, có lẽ áp lực lên các bạn đúng như câu hỏi, là luôn bị khách hàng cằn nhằn. Khi thị trường lên thì phải phím được mã nào chạy thật nhanh, vừa mua là tăng liền, không là bị cằn nhằn. Khi thị trường xuống thì phải biết trước hoặc cắt lỗ thật sớm sau đó là phải biết phím đúng đáy, không là bị cằn nhằn…

Phím hàng đúng nơi đúng lúc thì ít được khen, nhưng nếu sai mà gặp khách hàng nhớ dai thù sâu thì bị nghe mắng rất mệt. Tôi nghĩ những áp lực này không thể tránh được, trừ phi bạn chỉ có những khách hàng thân thiết, có họ hàng hay anh anh em em bè bạn bao năm biết chia sẻ cảm thông, hoặc khách hàng là NĐT giá trị "cổ điển", tức mua rồi cầm hoài ăn cổ tức. Bạn càng có nhiều khách hàng, tỷ lệ khách thích lướt sóng càng tăng lên, tỷ lệ khách ít thân quen càng tăng lên…, khi đó áp lực loại này cũng tăng lên.


Tôi nghĩ có một vài cách có thể áp dụng để giảm bớt áp lực trên, nhất là đối với khách hàng ít thân quen. Ví dụ như nên làm việc theo team, không nên làm cá nhân. Làm theo team không phải để đổ thừa, mà là có được kết quả tư vấn toàn diện hơn và chất lượng hơn khi cùng nhau làm.

Ví dụ như khi tìm kiếm cổ phiếu, không nên chọn duy nhất 1 mã. Không nên cam kết lãi hay bao lỗ. Khi giới thiệu, nên nói rõ cổ phiếu này mua đầu tư hay lướt, nếu lướt thì nên nói trước mức cắt lỗ. Đừng sợ nói cắt lỗ với khách hàng. Không nên khuyến nghị khách hàng bắt đáy nếu khách hàng không hiểu cắt lỗ là một tiêu chí của kỷ luật. Và điều quan trọng là, bạn nên thường xuyên cảnh báo khách hàng khi thấy có rủi ro.

Nhiều trường hợp tôi từng trải nghiệm qua, cho dù có thể cảnh báo sai, nhưng nhỡ đúng, khách hàng sẽ nhớ đến bạn. Tại sao nên làm chuyện này? Vì tôi nghĩ lời cảnh báo khác lời khuyến nghị ở một điểm rất quan trọng, đó là nó mang lại cảm giác thật lòng hơn. Chứng khoán không thể tăng hoài tăng mãi, bạn không thể khuyến nghị bách phát bách trúng, do đó khách hàng sẽ có lúc thắng lúc thua. Khi thua, họ sẽ nhớ rằng bạn đã cảnh báo vì lo lắng cho họ, và họ sẽ biết ơn vì điều đó.



TTCK Việt Nam thường gắn liền với khái niệm "đội lái", tôi nghĩ ở quan điểm cá nhân tôi, đội lái hiện tại quy mô và độ chuyên nghiệp lớn gấp nhiều lần "hồi xưa". Nhiều con số thống kê trên cả 2 sàn chứng khoán cơ bản và phái sinh cho thấy rất nhiều thời điểm giá chứng khoán diễn biến theo đúng thuyết âm mưu hay tin đồn lan truyền trước đó trong giới môi giới.

Nhiều khi giá chứng khoán giống như được vẽ sẵn, dụ được cả giới phân tích kỹ thuật. Đặc biệt những ngày phái sinh "đáo hạn", thì rổ cổ phiếu VN30 thường tạo sự bất ngờ đến ngỡ ngàng vào ATC, bạn nghĩ nó công bằng minh bạch ư?

Nói chung, đội lái vẫn còn đất diễn rất rộng theo tôi vì 3 lý do:

Một là tâm lý đầu cơ chứng khoán ở nước mình rất cao, nhiều người thích "ăn" dày, "ăn" ngay và luôn khi vừa mua xong, kiếm tiền kiểu đó thì chỉ là zero-sum game, bạn lấy tiền từ túi người khác.

Hai là cổ phiếu giá rẻ quá nhiều, gọi nôm na là cổ phiếu rác, những mã này không khiến NĐT sợ hãi mà còn kích thích lòng tham. Trên sàn có rất nhiều cổ phiếu giá chỉ chừng vài ba ngàn đồng (thậm chí vài ba trăm đồng), chỉ cần tăng lên 1 ngàn đồng là tương đương mấy chục phần trăm. Giả sử có 2 cổ phiếu cùng tăng giá 50% nhưng cổ phiếu tăng 1 ngàn đồng mang lại cảm giác nhanh và dễ hơn nhiều so với cổ phiếu tăng vài chục ngàn, hay cả trăm ngàn mới đạt mức % tương tự. Một cổ phiếu giá 2 ngàn đồng lên 4 ngàn đồng có khi chỉ cần mấy phiên hoặc hơn tuần, nhưng một cổ phiếu giá 100 ngàn đồng lên 200 ngàn đồng thì phải chờ mấy năm, nên chơi cổ phiếu 2 ngàn đồng mới chóng giàu.

Thứ ba là hình phạt rất yếu, chủ yếu là phạt tiền với giá trị mà nhiều người từng nói đùa là tương đương đóng thêm 1 lần phí giao dịch.


Về câu chuyện nhà đầu tư số 0 xuất hiện từ đợt Covid vừa qua, quan điểm của tôi cho rằng với những ai có nhiều năm kinh nghiệm lăn lộn trên sàn chứng, tất nhiên họ khôn hơn. Khôn ở đây nhiều nghĩa, ở mặt tích cực thì có cả tỉnh táo hơn, bớt liều hơn và biết sợ nhiều hơn, chuyên nghiệp hơn cũng có.

Tôi từng gặp những khách hàng chia sẻ rằng họ có phương pháp đầu tư cụ thể, chi tiết và họ tuân thủ một cách kỷ luật. Ở mặt tiêu cực, khôn hơn tức là nhiều "thủ đoạn", kể cả như sẵn sàng đua theo lái. Gần đây tôi vẫn thấy nhiều mã cổ phiếu xuất hiện chiêu đặt lệnh "rải đinh", trò này không phải dân kinh nghiệm thì còn ai? Còn đối với NĐT F0, tôi vẫn có cảm giác họ chẳng khác gì mấy với lớp F0 xưa, vẫn tham lam với chứng khoán, mua theo lời rỉ tai, dám chơi cổ phiếu rác, dám đua trần và thậm chí dám gồng lỗ margin.


Có ý kiến thú vị rằng Covid-19 đã mang lại cho lớp F0 này chiến thắng lớn, và nó hình thành một thói quen, hay tâm lý rằng nếu Covid-19 tái diễn, họ sẽ còn dám chơi lớn hơn nữa.

Cơ hội đầu tư luôn hiện hữu trên sàn chứng khoán, chỉ khác ở khoảng thời gian bạn đầu tư. Ở đây tất nhiên tôi tách bạch rạch ròi chuyện đầu tư và đầu cơ vì công việc chính của tôi là tìm kiếm cơ hội đầu tư, cơ hội đầu cơ thì tôi có 1 nhóm anh em khác đảm nhiệm. Làm nghề phân tích đầu tư lúc này, nhiệm vụ của tôi là luôn phải tìm ra cổ phiếu, kể cả những lúc khó tìm, kiểu như hồi tháng 3 vừa qua. Ở góc độ cá nhân, tôi nghĩ tìm cổ phiếu đầu tư không khó, nhưng thuyết phục người mua thì mới khó. Đây lại là câu chuyện dài, tùy mình tùy người và tùy từng bối cảnh.

Châu Cao (ghi)

PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ VỐN HIỆU QUẢ






Quản lý vốn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến dòng tiền, chiến lược đầu tư hay quyết định đầu tư của mỗi trader. Nhưng, quản lý vốn là gì? Có những phương pháp quản lý vốn hiệu quả nào? Nếu bạn đang có cùng thắc mắc như tôi, thì hãy theo dõi bài viết dưới đây nhé!Những phương pháp quản lý vốn trong trade coin và forex
1. Quản lý vốn là gì? Tầm quan trọng của quản lý vốn trade coin và forex
Đầu tiên, trước khi tìm hiểu các phương pháp quản lý vốn, chúng ta hãy cùng tìm hiểu đôi chút về nguồn vốn trong trade coin và forex là gì nhé
1.1. Nguồn vốn là gì? Thế nào là quản lý vốn?
Nguồn vốn chính là tiền. Cụ thể, đó là nguồn tiền bạn dự định sẽ đầu tư vào các sàn giao dịch.
Với mức ngân sách được tính toán trước, các trades sẽ được cung cấp một phạm vi để đánh giá khả năng tồn tại của họ trong các chiến dịch đầu tư trade coin hay forex. Nguồn vốn không chỉ giúp phơi bày rủi ro và sự không chắc chắn của các chiến dịch khác nhau, mà còn giúp kiểm tra các khoản đầu tư lỗ hay lãi một cách hiệu quả
Quản lý nguồn vốn là một sự kiểm soát hiệu quả các khoản chi tiêu vốn. Từ đó, đưa ra được những quyết định giao dịch tối ưu nhất cho kế hoạch phát triển đầu tư lâu dài.
1.2. Cách quản lý vốn hiệu quả quan trọng như thế nào với các traders?
Nếu bạn là một trader mới trong lĩnh vực trade coin hoặc forex, thì ngoài học cách đầu tư, viêc quan trọng không kém chính là học cách quản lý vốn hiệu quả, bởi vì:
Đầu tư trade coin hay forex đều có rủi ro. Đặc biệt là khi thị trường biến đổi không ngừng khiến các traders thiếu kinh nghiệm dễ bị “sa bẫy”. Vì vậy, việc lập kế hoạch thích hợp thông qua ngân sách vốn là cần thiết nếu bạn muốn đầu tư dài hạn
Các khoản đầu tư là “một chiều”. Tức là khi bạn đã đưa ra lệnh thi không thể rút lại. Và vì nguồn vốn là có hạn, nếu bạn không cân nhắc kỹ, rất có thể bạn sẽ phải chia tay “sàn” chỉ trong vài bước lệnh.
Nguồn vốn quyết định thời gian đầu tư của bạn. Đồng thời, nó cũng quyết định lợi nhuận bạn nhận được là nhiều hay ít. Nếu bạn bạn quản lý vốn hiệu quả, bạn sẽ tránh được những khoản đầu tư không đáng và giữ cho “tuổi thọ đầu tư” của bạn được dài lâu.
Vậy, làm sao để quản lý vốn forex và trade coin hiệu quả?
2. Những phương pháp quản lý vốn forex và trade coin
Thực tế, mỗi trader có một phương pháp khác nhau để quản lý vốn forex và tradecoin của mình. Dưới đây là một số phương pháp phổ biến nhất, bao gồm: Phương thức áp dụng thời gian hoàn vốn (PP – Payback Period), Tỷ lệ kế toán của phương thức hoàn trả (ARR). Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp chỉ số lợi nhuận và IRR.Cách quản lý vốn hiệu quả rất cần thiết dành cho traders
2.1. Phương thức áp dụng thời gian hoàn vốn (PP – Payback Period)
Thời gian hoàn vốn – Payback Period là độ dài thời gian mà traders trade coin và trade forex có thể thu hồi lại đủ vốn đầu tư ban đầu.

Công thức tính cụ thể : Thời gian hoàn vốn = Tiền mặt (đầu tư) / Dòng tiền hàng năm
Thực tế, phương pháp này được xây dựng dựa trên quy tắc ngón tay cái (The Range Rule of Thumb), dựa vào giá trị hoàn vốn tính được, bạn có thể tính được tính khả thi của lệnh giao dịch. Từ đó, quyết định xe, có nên thực hiện hay từ chối.
2.2. Tỷ lệ kế toán của phương thức hoàn trả (ARR)
Phương pháp quản lý vốn hiệu quả thứ hai là áp dụng tỷ lệ ARR hay Tỷ lệ kế toán của phương thức hoàn trả. Phương pháp này giúp khắc phục nhược điểm của phương pháp thời gian hoàn vốn. Tỷ lệ hoàn vốn được biểu thị bằng phần trăm thu nhập của khoản đầu tư lệnh trading cụ thể.Quy tắc hoạt động của phương pháp này là: khi tỷ lệ ARR của lệnh mua/bán cặp tiền hoặc coin cao hơn tỷ lệ tối thiểu được thiết lập trước đó sẽ được xem xét và những lệnh có tỷ lệ ARR thấp tỷ lệ được xác định trước sẽ bị từ chối.

Công thức cụ thể: ARR = Lợi nhuận trung bình / Giá trị đầu tư trung bình
Tuy nhiên, phương pháp này không xem xét đến thời gian của lệnh. Nên nó không thích hợp với những chiến lược đầu tư dài hạn.
2.3. Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV)
Đây là một trong những phương pháp quản lý vốn được sử dụng rộng rãi để đánh giá tính khả thi của các đề xuất đầu tư, trong cả forex và trade coin. Phương pháp này cho biết mức lãi thực tế mà traders đạt được sau khi khấu hao tất cả chi phí bỏ ra ban đầu. Và sử dụng nó để xác định giao dịch có nên thực hiện hay không.

Công thức tính: NPV = PVB – PVC

Trong đó: PVB = Giá trị lợi nhuận

PVC = Giá trị chi phí

Trong phương pháp quản lý vốn này, dòng tiền dự kiến ​​ở các khoảng thời gian khác nhau được chiết khấu(chi phí cơ hội) ở một tỷ lệ cụ thể. Các giá trị hiện tại của dòng tiền được so sánh với đầu tư ban đầu. Nếu kết quả là dương (+) thì nó được chấp nhận hoặc là âm (-) thì bị từ chối.
Tuy nhiên phương pháp NPV này có nhược điểm là đòi hỏi tính toán chính xác chi phí. Điều mà khó thực hiện nếu kế hoạch giao dịch kéo dài. Nó sẽ phù hợp nhất với các giao dịch Quyền chọn nhị phân ( BO ). Khi mà bạn đã có thể nắm được chi phí, thời gian giao dịch và lợi nhuận dự kiến.
2.4. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
IRR (Internal rate of return) được gọi là lãi suất nội bộ vì nó chỉ phụ thuộc vào chi phí và tiền thu được liên quan đến giao dịch chứ không từ bất kỳ nguồn tiền ngoài nào khác.
Nói một cách tổng quát, tỉ lệ IRR càng cao thì tiềm năng của giao dịch càng lớn. Đồng thời, IRR còn được coi là thước đo đánh giá tốc độ tăng trưởng mà một giao dịch có thể tạo ra được. Nếu giả định tất cả các điều kiện khác là như nhau thì giao dịch nào có IRR cao nhất thì giao dịch nên được ưu tiên thực hiện đầu tiên.
2.5. Chỉ số lợi nhuận (PI- Profitability Index)
Chỉ số lợi nhuận PI được hiểu đơn giản là tỷ số giữa giá trị hoàn vốn từ giao dịch so với tổng các khoản đầu tư ban đầu.

Công thức tính chỉ số PI cụ thể như sau: PI = giá trị thu hồi (NPV) / Vốn ban đầu
Kết quả: Tất cả các dự án có PI> 1.0 được chấp nhận.
3. Các phương pháp quản lý vốn theo chỉ báo kỹ thuật
Bên cạnh những lựa chọn trên, các nhà đầu tư trade coin và forex còn lựa chọn một số phương pháp quản lý vốn theo chỉ báo kỹ thuật. Trong đó, nổi bật nhất là phương pháp Fibonacci và Martingale.Phương pháp quản lý vốn đầu tư với chỉ báo Fibonacci
3.1. Phương pháp quản lý vốn Fibonacci
Với phương pháp chỉ báo Fibonacci này, bạn sẽ thực hiện giao dịch dựa trên một dãy số tỷ lệ có quy luật là 2 số sau cộng lại sẽ bằng một số trước. Cụ thể theo 2 cách xuôi và ngược là: 1-1-2-3-5-8-13-21 và 21-13-8-5-3-2-1-1.
Ví dụ, tại nhóm Fibonacci xuôi, bạn sẽ đánh trước 1$. Sau đó nếu thua bạn đánh gấp 1$, rồi gấp 2$, gấp 3$… Cho đến khi thua hết hoặc bạn win và có lãi hòa vốn hoàn về tài khoản. Ngược lại, cũng tương tự, nếu đánh theo tỷ lệ ngược, đầu tiên traders sẽ đánh 21$. Nếu thua đánh tiếp 13$, và giảm dần xuống 8$ rồi xuống 5$…
Nếu thua bạn sẽ mất: 21-13-8-5-3-2-1-1=54$
Nếu bạn may mắn thắng ở lệnh 21, thì chỉ cần 3 lần thắng như vậy, bạn sẽ hoàn được vốn: 21-21-21=63$
3.2. Phương pháp quản lý vốn Martingale
Phương pháp quản lý vốn vằng chỉ báo kỹ thuật thứ hai mà tôi muốn giới thiệu đến bạn chính là phương pháp quản lý vốn Martingale. Phương pháp này thực tế được dựa trên một tư duy đã quá “quen” trong giới cờ bạc. Đó là chỉ cần 1 win lần thì có hòa lại toàn bộ số lệnh thua trước đó. Không hạn chế trước đó đã bị thua bao nhiêu lần.
Cụ thể: Lệnh 1 bạn đánh 1, thua bạn đánh 2, thua 4 thua bạn đánh tiếp 8,16,32,64 và quay lại về 1.
Tuy nhiên, rủi ro của phương pháp này rất cao, vì càng nhân lên, số chi phí bạn phải bỏ ra càng lớn. Và nếu không may mắn, bạn sẽ bị thua đậm.
3.3. Một số phương pháp quản lý vốn hiệu quả theo chỉ số kỹ thuật khác
Ngoài Fibonacci, Martingale, có một số chỉ số khác có thể hỗ trợ cho công tác quản lý vốn đầu tư của bạn. Cụ thể đó là những chỉ số sau: Paroli: 1-2-4-1, D’Alembert: 1-2-3-4-3-2, Rabbonni A136 : 1-3-6…
Tuy nhiên, có một điều bạn cần suy nghĩ kỹ vì mỗi phương pháp chỉ đúng vào một thời điểm nhất định. Không hề có một phương pháp nào có thể giúp bạn WIN 100%. Vì vậy hãy tùy thuộc vào ngân sách và mục tiêu của mình mà phân bổ vốn sau cho phù hợp.
Lời khuyên: Đừng bao giờ đánh hết tài khoản, vì đó sẽ là cơ hội cuối cùng giúp bạn “vực dậy” nếu quyết định giao dịch forex hay trade coin tại thời điểm chọn của bạn là một sai lầm.
4. Kết luận
Trên đây là một số phương pháp quản lý vốn hiệu quả trong forex và bitcoin. Nhưng, dù là phương pháp nào, muốn thành công, traders cũng phải chuẩn bị cho mình hành trang tâm lý thật vững vàng và ổn định. Từ đó, mới đưa ra được các chiến lược đúng đắn nhất tùy vào hoàn cảnh, giúp ích hiệu quả cho quá trình xây dựng sự nghiêp đầu tư của mình.

 Chúc bạn thành công! 

ADMIN

Hội chứng "Người giàu khốn khổ" và câu chuyện Bill Gates không để hết tài sản lại cho con




Hội chứng "Người giàu khốn khổ" (Rich Asshole Syndrome) được hình thành khi các đại gia cảm thấy thất vọng vì không được thỏa mãn các nhu cầu dù sống trong điều kiện tốt hơn so với số đông.


Năm 2007, nhà báo Gary Rivlin đăng tải trên tờ New York Time hồ sơ tổng hợp về những người giàu nhất thung lũng Silicol. Một trong số đó là doanh nhân Hal Steger sống cùng vợ trong ngôi nhà trị giá hàng triệu USD bên bờ biển Thái Bình Dương. Tổng tài sản ròng của gia đình này vào khoảng 3,5 triệu USD và giả sử với mức lợi nhuận thu về 5% cho các khoản đầu tư, gia đình Steger có thể sống nhàn hạ đến cuối đời với thu nhập cố định 175.000 USD/tháng.
Trớ trêu thay, Rivlin cho biết doanh nhân Steger luôn bắt đầu ngày làm việc từ 7h sáng. Vị triệu phú đã 51 tuổi này làm 12 tiếng mỗi ngày và 10 tiếng vào cuối tuần. Nghe có vẻ phi lý cho một doanh nhân thành đạt đã cao tuổi. Thậm chí bản thân Steger cũng nhận thức được vấn đề này.
"Tôi biết người ngoài nhìn vào sẽ hỏi tại sao tôi còn làm việc chăm chỉ như vậy khi đã giàu. Thế nhưng với tình cảnh của tôi hiện nay, một vài triệu USD chẳng có ý nghĩa là mấy", triệu phú Steger cho biết.


Câu nói này của Steger vốn ám chỉ đến lạm phát, đồng tiền mất giá hay nhiều yếu tố rủi ro khác nhưng với nhà báo Rivlin, bản thân Steger dường như không nhận ra ông đang lâm vào một tình cảnh thường thấy trong giới nhà giàu. Theo Rivlin, Thung lũng Silicon là mảnh đất của tầng lớp "lao động triệu phú" (Working Class Millionaires). Đây là những gã nhà giàu thành đạt nhờ làm việc chăm chỉ, thế nhưng họ vẫn chưa công nhận rằng mình giàu khi sống trong một cộng đồng toàn những kẻ giàu tương đương hay thậm chí nhiều tiền hơn mình.
Sau khi phỏng vấn nhiều giám đốc điều hành, những người thuộc tầng lớp giàu có, nhà báo Rivlin cho rằng nhiều triệu phú thường coi số tiền mình hiện có chẳng đáng bao nhiêu so với hàng trăm nghìn đại gia khác.
Triệu phú Gary Kremen, người sáng lập Match.com với khối tài sản ròng 10 triệu USD nhận thức được vấn đè này.
"Những người giàu như chúng tôi thường nhìn lên những người giàu hơn. Ở tầng lớp này, bạn vẫn sẽ chẳng là gì nếu chỉ có 10 triệu USD", nhà sáng lập Kremen thừa nhận.
Vậy nếu 10 triệu USD vẫn chẳng là gì thì bao nhiêu mới đủ?
Nhiều người có thể nguyền rủa những người giàu khi đã lắm tiền nhưng vẫn miệt mài làm việc. Thế nhưng sự thật là giới nhà giàu đang lâm vào một cái bẫy tâm lý khi làm việc quần quật và lọt vào 0,001% những người giàu nhất thế giới để rồi không nhận ra mình đã đạt được mục tiêu ban đầu.
Nếu vẫn tiếp tục sống "quần quật" và chỉ ngước nhìn lên như vậy, những người giàu sẽ chẳng bao giờ thấy mình thực sự giàu. Khi đã già và bệnh tật, những người giàu mới chợt nhận ra cuộc sống vô nghĩa khi cắm đầu kiếm tiền để rồi cuối cùng chẳng nhận được mấy sự cảm thông từ gia đình hay bạn bè.
Hội chứng "Người giàu khốn khổ"
Đối với phần đông, người giàu thường bị gắn mác lạnh lùng, kênh kiệu, khó ưa… Họ thường làm những gì mình muốn và chẳng để tâm mấy đến những người xung quanh. Họ sống cô độc trong thế giới và tầng lớp riêng mà quên đi mất số đông những người bình thường còn lại.
Tuy nhiên những đại gia khó ưa này không phải sinh ra đã vậy. Hội chứng "Người giàu khốn khổ" (Rich Asshole Syndrome) được hình thành khi các đại gia cảm thấy thất vọng vì không được thỏa mãn các nhu cầu dù sống trong điều kiện tốt hơn so với số đông.
Ngay từ bé, trẻ em đã được dạy về sự giàu có, về sức mạnh của tiền bạc khi gia đình khá giả mua được cho con họ nhiều đồ chơi hơn. Lớn lên, tiền bạc được dùng để đánh giá về sự thành công, về khả năng kết hôn cùng nhiều sự lựa chọn khác.
Thế nhưng, hầu như chẳng có ai nói cho những người giàu biết về cái giá của họ khi thay đổi cuộc sống nhờ kiếm nhiều tiền hơn. Người giàu mua ô tô để không phải chen chúc đi xe buýt, họ mua biệt thự để tránh bị làm phiền bởi những hàng xóm ồn ào. Người giàu ở khách sạn hạng sang thay vì những nhà nghỉ rẻ tiền.
Các đại gia sử dụng tiền để giải thoát bản thân khỏi những rủi ro, bất tiện trong cuộc sống. Tuy nhiên đi cùng với đó là những cái giá tiềm ẩn. Việc tách biệt khỏi số đông khiến người giàu sống thoải mái nhưng cũng khiến họ mất cơ hội làm quen với những người lạ, trải nghiệm những thứ bình thường hay giao tiếp như phần đông những người khác.
Những nhà nghiên cứu đã nhiều lần kết luận rằng cảm giác kết nối trong một cộng đồng là yếu tố quan trọng làm nên hạnh phúc. Số liệu của Tổng cục điều tra dân số Mỹ cho thấy thập niên 1920, chỉ có khoảng 5% người dân sống một mình thì nay hơn ¼ tổng dân số Mỹ lủi thủi 1 mình, đây là tỷ lệ cao kỷ lục chưa từng có.


Ngoài ra, tỷ lệ sử dụng thuốc chống trầm cảm đã tăng hơn 400% trong 20 năm qua. Hiện tượng nghiện thuốc giảm đau thì ngày càng tăng. Số người giàu trên thế giới ngày một nhiều khi kinh tế đi lên nhưng sự hạnh phúc của người dân, thậm chí là cả những đại gia lại chẳng mấy thay đổi nếu không muốn nói là tệ hơn.
Nghiên cứu của trường đại học Toronto cho thấy người giàu thường kém hào phóng hơn người nghèo, nhưng nguyên nhân không đơn thuần là do người giàu keo kiệt. Thay vào đó, sự tách biệt khoảng cách giữa 2 tầng lớp đã làm giảm sút khả năng đồng cảm, thương hại của người giàu với người nghèo hơn.
Thậm chí, nghiên cứu của đại học Toronto còn cho thấy người giàu có xu hướng ít hào phóng hơn khi sự bất bình đẳng quá cao hoặc quá thường xuyên trong xã hội chứ không phải do bản tính ích kỷ. Nếu người cần được giúp đỡ không quá khác biệt, người giàu có thể sẵn sàng đưa tay giúp đỡ, thế nhưng nếu sự khác biệt về văn hóa, kinh tế hay tầng lớp quá xa hoặc sự bất bình đẳng diễn ra thường xuyên trong xã hội, người giàu có lẽ sẽ chẳng mấy quan tâm.
Người giàu thích phạm tội?
Các nhà thần kinh học Jorge Moll, Jordan Grafman và Frank Krueger của Viện Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ Quốc gia (NINDS) đã sử dụng máy fMRI để chứng minh lòng vị tha của con người liên quan đến bản năng, đến cấu trúc tiến hóa não bộ người hơn là văn hóa xã hội.
Theo đó, não bộ người được lập trình từ bé để có được cảm giác an toàn khi thể hiện lòng tốt hoặc chăm sóc cho những người cần giúp đỡ. Tuy nhiên, việc giúp đỡ người khác sẽ bị thay đổi do cách giáo dục và sự học hỏi trong quá trình trưởng thành, qua đó khiến những đứa trẻ nhà giàu có ít bản năng giúp đỡ những người khác hơn.
Đồng quan điểm, nhà tâm lý học Dahcer Kelter và Paul Piff đã theo dõi các ngã tư và cho kết quả rằng những chiếc xe đắt tiền tạt đầu xe khác nhiều gấp 4 lần so với những chiếc xe bình dân. Khi theo dõi đèn dừng cho người đi bộ qua đường, hầu hết những chiếc xe bình dân đều dừng đèn đỏ tôn trọng luật pháp nhưng chỉ có 46,2% những chiếc xe đắt tiền làm điều này dù họ đã nhìn thấy có người chuẩn bị băng qua đường.
Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy người giàu nhiều khả năng gian lận trong công việc hay trò chơi hơn những người bình thường. Họ cũng có nhiều khả năng nói dối trong các cuộc đàm phán, bào chữa hành vi phi đạo đức ở nơi làm việc hay nói dối khách hàng để kiếm thêm thu nhập.
Khảo sát của Viện tâm thần New York cho thấy người giàu có nhiều khả năng không thanh toán hàng hóa khi ra khỏi cửa hàng hơn là người nghèo. Nghe thật trớ trêu nhưng chúng phản ánh một quy luật tại các nước Phương Tây: Nếu bạn biết mình đủ khả năng thuê luật sư giỏi hoặc đóng tiền tại ngoại, việc vượt đèn đỏ hay không thanh toán một thanh kẹo Snickers có vẻ không quá rủi ro.
Tuy nhiên câu chuyện không dừng lại ở việc ăn trộm một thanh kẹo. Tổ chức nghiên cứu độc lập "Independent Sector" đã từng công bố kết quả cho thấy những người có thu nhập dưới 25.000 USD/năm thường quyên góp hoặc cho đi hơn 4% thu nhập của mình. Tuy nhiên, những người thu nhập hơn 150.000 USD/năm lại chỉ đóng góp khoảng 2,7% bất chấp theo luật định, người giàu có thể hưởng các lợi ích về thuế khi làm từ thiện hơn người nghèo.
Tất nhiên, "Hội chứng người giàu khốn khổ" cũng có những ngoại lệ khi nhiều tỷ phú đủ thông minh để nhận ra những cạm bẫy của đồng tiền. Dẫu vậy những người giàu này rất hiếm và đa số có gốc gác bình dân.
Có lẽ sự thấu hiểu về tác hại của đồng tiền đã giải thích cho việc nhiều tỷ phú từ chối để lại gia sản cho con cháu. Những người giàu như Bill Gates, Warren Buffett đã cam hết cho đi hầu hết tài sản của họ khi qua đời.
Hiện nay, rất nhiều người cho rằng chiến thắng trong trò chơi tiền bạc sẽ đem lại hạnh phúc và sự hài lòng. Thế nhưng lịch sử khoảng 300.000 năm của loài người lại cho thấy tài sản hay tiền bạc không bao giờ là đủ và đôi khi hạnh phúc chỉ là sự sẻ chia, thông cảm hoặc đơn giản là biết điểm dừng.
AB

Thứ Hai, 20 tháng 7, 2020

Vì sao người xưa có câu "Người biết ở một mình mới trở thành xuất chúng"?

Chấp nhận và tận hưởng sự cô đơn là một loại cảnh giới trí tuệ đầy khôn ngoan. Trước phải hòa hợp với mình, sau đó mới học được cách hòa hợp cùng người khác.
Trang Tử nói: “Độc hữu chi nhân, thị vị chi quý”, ý nói rằng “Người biết ở một mình mới trở thành người xuất chúng, được coi là tôn quý”.
“Độc hữu” ở đây chỉ sự tự do tự tại, sự hài hòa tự thân, hoàn thiện bản thân, cũng chính là biết cách chung sống với chính mình.
Phải biết rằng, từ nhỏ đến lớn, chúng ta đã học quá nhiều đạo lý về cách làm thế nào để chung sống với người khác, hòa nhập với xã hội và trở nên xuất sắc trong cộng đồng. Nhưng lại quên mất một điều căn bản nhất, kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình.
Nếu ai có thể chiến thắng bản thân, học cách chung sống với bản thân thì người đó có thể chiến thắng tất cả.
Cô đơn là điều không thể tránh khỏi
Trang Tử có một “đối thủ” là Huệ Tử, hai người thường đối đáp biện ngẫu với nhau. Nhiều lần Huệ Tử bị Trang Tử nói đến “tối tăm mặt mũi” mà không phản bác được, điển hình là câu chuyện “Ông không phải cá sao biết niềm vui của cá?”.
Sau khi Huệ Tử qua đời, Trang Tử đã kể lại một câu chuyện ngụ ngôn miêu tả về sự cô độc vì mất đi người bạn tinh thần như sau:
Một người đàn ông bị nổi chấm đen như nốt ruồi trên mũi. Ông đi tìm người thợ làm đá cắt đi cho mình. Người thợ đá tiện tay vung rìu lên, thong dong vạt chấm đen đó đi mà không mảy may xước xát cánh mũi của đối phương.
Tống Nguyên Quân biết chuyện, bèn gọi người thợ làm đá đến mà yêu cầu ông làm thử cho mình xem.
Tuy nhiên, người thợ đá lại từ chối. Khi được hỏi lý do, ông ta đáp rằng: “Trước kia tôi còn có thể bình tĩnh để làm vậy, nhưng hiện tại thì không, vì người bạn đồng hành cùng tôi sớm đã qua đời rồi!”.
Giống như Đỗ Phủ và Lý Bạch, hai người từng hâm mộ tài hoa và thiên phú của nhau, kết đôi cùng du ngoạn giang hồ và cho rằng sẽ đồng hành cả đời bên nhau. Tuy nhiên, "tâm tôi hướng sơn, tâm bạn hướng thủy", khi chí hướng khác biệt, họ vẫn phải vẫy tay tạm biệt, đường ai nấy đi.
Hiển nhiên, trong thời gian dài đằng đẵng, không một ai có thể ở bên ta trọn đời. Kỳ thực, cô đơn một mình mới là trạng thái vĩnh hằng của kiếp người, khi hai thời điểm quan trọng nhất là ra đời và chết đi, chúng ta đều chỉ có thể đi một mình.
Do đó, điều chúng ta phải làm là học được cách đối mặt với sự cô đơn, chung sống với bản thân tốt hơn mỗi ngày.
Lựa chọn sự cô đơn có giá trị
Trong cuốn "Đại tông sư" của Trang Tử cũng có viết về hai chú cá cố chấp nằm cùng nhau trong cái hồ cạn nước, có cố gắng làm ướt cho nhau để duy trì sự sống.
Trang Tử nói, so việc cố gắng cho qua ngày như vậy, chi bằng tha cho nhau, đi đến nơi biển rộng sông dài sống một cuộc sống mới.
Trong đời người, nếu có cơ hội cùng đồng hành với một lữ khách, dù là 1 tháng, 1 năm hay 10 năm, đó cũng là một loại may mắn. Nhưng suy cho cùng, chỉ có bản thân mới có thể tự hoàn thành được lịch trình của mình. Bạn phải làm chủ sinh mệnh của chính mình trước, sau đó mới có thể sống tốt được.
Einstein nói: “Những người xuất chúng, sở hữu khối óc vĩ đại luôn phải đối mặt với những chỉ trích kịch liệt từ những kẻ mang đầu óc tầm thường.”
Một người có ước mơ, có hành động để biến ước mơ thành hiện thực, cũng có đủ năng lực và sự vĩ đại để làm tốt hơn người khác thì họ bắt buộc phải trở nên khác biệt. Họ dám bước ra khỏi số đông đang lầm lũi từng ngày trong những niềm mơ vụn vặt, nhỏ bé như danh tiếng, địa vị, nhà xe, bằng cấp, phụ nữ hay rượu ngon…
Số đông lại đang mải mê giam cần bản thân trong những lo lắng nhỏ, lo sợ thành công là một tài khoản có giới hạn, cần phải tranh cướp và giẫm đạp lên nhau để giành lấy. Khác với họ, người có khối óc xuất chúng lại nhìn thấu đạo lý rằng, khác biệt đồng nghĩa với cô đơn, nhưng cũng đồng nghĩa với sự tự do. Ở đó, tài năng sẽ đem tới sự thịnh vượng thích đáng.
Người có trí tuệ lớn sẽ không bận lòng tới lời ong tiếng ve của thiên hạ. Họ dành thời gian để sáng kiến và tạo ra nhiều ý tưởng đột phá chứ không hoài công giải thích lý do cho những kẻ non nớt tầm thường. Đơn giản là vì, họ đã quen với tư duy độc hữu, dù cô đơn nhưng đầy giá trị. Sự thành công đến từ chính năng lực của họ, chứ không đến từ miệng lưỡi hay cái nhìn của thế gian.
Tận hưởng sự cô đơn là một loại trí tuệ
Trong trí tuệ của Trang Tử, nhiệm vụ đời người không gì khác là: Tìm thấy chính mình và tìm thấy con đường của chính mình. Có lẽ, trên chặng đường này, ai cũng có lúc cảm thấy cô đơn, nhưng chấp nhận sự cô đơn chính là bắt đầu của một cuộc sống viên mãn. Nếu bản thân mình cũng không thể hòa hợp được, bạn sẽ vĩnh viễn không thể hòa hợp được với người khác.
Giống như cách mà nhà triết học người Đức Arthur Schopenhauer đã nói: "Chỉ khi một người cô đơn, anh ta mới có thể trở thành chính mình. Nếu ai đó không yêu cô đơn, thì anh ta không yêu tự do, bởi vì chỉ khi một người cô đơn, anh ta mới được tự do."
Chúng ta có thể đồng hành đi khắp giang hồ, nhưng lại chỉ có thể tự mình đi tới chân trời và góc bể.
Tận hưởng sự cô đơn là một niềm vui nhẹ nhàng và dễ chịu, không liên quan đến vật chất hay sở thích, cũng không bị tham vọng hay nhu cầu ảnh hưởng. Nó đến từ nội tâm con người với trái tim rộng mở, có sự bình tĩnh và đầy tự chủ.
Tận hưởng sự cô đơn cũng là một loại tư thái bản lĩnh, khi chúng ta tiến bước giữa đời, nhanh thì có thể hưởng thụ tốc độ, chậm thì có thể ngắm nhìn cảnh sắc xung quanh, không để hư danh che mắt, không bị dối trá giấu lòng. Đó là bản lĩnh của người khiêm nhường, ôn nhã nhưng trí tuệ và khôn ngoan.
Khi làm con cừu sẽ nhàm chán, còn cái giá để làm sư tử là sự cô đơn. Tương tự như vậy, khi muốn sum vầy hãy làm cây cỏ, khi làm cổ thụ thì phải chấp nhận nỗi cô đơn.

Dương Mộc